Hợp tác quảng cáo

UNG THƯ TUYẾN TIỀN LIỆT là thể tiềm tàng, khá phổ biến và có xu hướng tăng cùng với tuổi thọ

Ung thư tuyến tiền liệt, chủ yếu là ung thư biểu mô, xuất phát từ các tế bào biểu mô của các túi nang tuyến tiền liệt. Xuất hiện ở nam giới trên 50 tuổi dưới dạng tiềm tàng trong nhiều năm hoặc ngược lại, nhanh chóng tiến triển và di căn, dễn đến tử vong.

Trên thế giới, ung thư tuyến tiền liệt đứng hàng thứ năm trong các loại ung thư của nam giới.

Bệnh nhân phân bố rất khác nhau tùy từng vùng. Ở Hoa Kì và Châu Âu, ung thư tuyến tiền liệt đứng hàng thứ hai trong các loại ung thư ở nam giới và đứng đầu trong các loại ung thư tiết liệu. Ở các nước Châu Á, tỉ lệ này thấp hơn nhiều. Tỉ lệ tử vong ở Hoa Kì và Châu Âu đều rất cao, sau ung thư phổi và ung thư đại tràng.

Tuy vậy, các số liệu về lâm sàng ghi nhện trên đây cũng chữa phản ánh đầy đủ tình hình bệnh ung thư tuyến tiền liệt trên thực tế. Rich A.R (1935) cho rằng, số trường hợp ung thư phát hiện được trước khi bệnh nhân chết chỉ bằng 1/3 các trường hợp có ung thư tuyến tiền liệt lúc giải phẫu tử thi. Khi cắt lớp mỏng tuyến tiền liệt của các bệnh nhân trên 50 tuổi chết vì các nguyên nhân khác nhau.

Nhưng tỉ lệ ung thư tuyến tiền liệt ở thể tiềm tàng rất cao và chỉ có một số ít trường hợp có biểu hiện lâm sàng rõ nét.

Sự phát triển bệnh học của ung thư tuyến tiền liệt rất phong phú trong những năm gần đây. Trước tiên, các nhà lâm sàng và giải phẫu bệnh đã nghiên cứu dịch tễ học và lịch trình tiến triển tự nhiên của bệnh.

Nhiều công trình nghiên cứu sự phân chia giai đoạn và đánh giá độ ác tính của ung thư tuyến tiền liệt. năm 1936, Gutman nêu sự liên quan giữa tỉ số photphataza axit và sự tiến triển của ung thư tuyến tiền liệt. Wang (1979) và Kuriyama (1980) mô tả định lượng kháng nguyên đặc hiệu của tuyến tiền liệt (PSA) như một chất đánh dấu ung thư có giá trị.

Về phương diện điều trị, nhiều nhà ngoại khoa lỗi lạc đã tìm ra phương pháp điều trị ung thư tuyến tiền liệt. Hunter John (1786) đã cắt bỏ tinh hoàn để điều trị u phì đại và ung thư tuyến tiền liệt. Năm 1866, Kẩchler lần đầu tiên cắt bỏ toàn bộ tuyến tiền liệt qua đường sinh môn, phương pháp này được Young (1904) phổ biến rộng rãi. Millin (1974) đã sử dụng đường mổ sau xương mu. Năm 1982, Walsh và Donker đã cải tiến phương pháp cắt bỏ toàn bộ tuyến tiền liệt và tránh được các biến chứng của phẫu thuật này một cách đáng kể. Năm 1941, Huggins đã đề xướng phương pháp điều trị ung thư tuyến tiền liệt bằng cách cắt bỏ tinh hoàn và sử dụng hormone ostrogen. Công trình cơ bản này tác giả đã đoạt giải Nobel. Byar đã đánh giá lại kết quả điều trị ung thư tuyến tiền liệt bằng ostrogen (1967-69). Sau đó, nhiều loại thuốc chống androgen xuất hiện.

Điều trị quang tuyến được ứng dụng ở Hoa Kì và Châu Âu từ thế kỉ 20. Với sự ra đời các máy chiều coban từ xa (télécobalt) các máy tăng tốc tuyến tình và các máy bêtatron đã xuất hiện một khả năng mới điều trị ung thư tuyến tiền liệt.

Bên cạnh những cố gắng trong điều trị bằng hóa chất đối với trường hợp ung thư tuyến tiền liệt không còn đáp ứng với hormone, nhiều tác giả đã nghiên cứu điều trị bằng phương pháp miễn dịch chống ung thư.

Ở Việt Nam, ung thư tuyến tiền liệt đứng hàng thứ hai trong các loại ung thư tiết niệu được phát hiện bằng lâm sàng. Phần lớn bệnh nhân đến bệnh viện đều muộn. Giáo sư Tôn Thất Tùng đã sử dụng phương pháp miễn dịch, BCG, lévamisole và LH1 để điều trị ung thư tiết niệu. ung thư tuyến tiền liệt tiềm tàng phát hiện lúc mổ bóc u phì đại tiền liệt tuyến hay cắt nội soi trung bình là 8%.

UNG THU TUYEN TIEN LIET la the tiem tang, kha pho bien va co xu huong tang cung voi tuoi tho

Ảnh minh họa

Trong "Bách khoa thư bệnh học" của NXB Giáo dục, Giáo sư Nguyễn Bửu Triều đã mô tả chi tiết các phần của ung thư tuyến tiền liệt như sau:

Nguyên nhân của ung thư tuyến tiền liệt

Nguyên nhân của ung thư tuyến tiền liệt hiện nay chưa rõ. Nhưng những công trình nghiên cứu về dịch tễ học cho thấy một số tác nhân sau có thể có liên quan đến sự xuất hiện của ung thư:

Nguyên nhân di truyền: sự phân bố bệnh ung thư tuyến tiền liệt khác nhau trên thế giới và sự xuất hiện ung thư với tần số cao trong một gia đình cho phép nghĩ đến yếu tố di truyền.

Vai trò của hormone: Androgen có tác dụng gây cảm ứng và triển triển ung thư tuyến tiền liệt. Những người bị hoạn từ lúc còn bé không bào giờ mắc ung thư tuyến tiền liệt. Ơstrogen và các loại androgen có tác dụng ngăn chặn sự tiến triển của ung thư. Winkelstein và Ernster (1979) thấy bệnh nhân xơ gan ít bị ung thư tuyến tiền liệt và trong máu của họ nồng độ ơstrogen cao hơn bình thường vì chức năng gan suy giảm.

Yếu tố miễn dịch: Bệnh nhên bị ung thư tuyến tiền liệt thường ở tuổi cao và giảm sút miễn dịch, do đó có thể mắc nhiều bệnh ung thư khac. Sự suy giảm miễn dịch kèm theo tác động của các oncogen ras P21 giải thích được sự xuất hiện của ung thư.

Chế độ ăn: Shenman và Bishop (1974) thấy sự liên quan có ý nghĩa giữa mục tiêu thức ăn nhiều mỡ với tần số ung thư tuyến tiền liệt ở 32 nước. Hirayama (1979) cũng nêu tỉ lệ tử vong cao do ung thư tuyến tiền liệt ở người Nhật ăn theo chế độ người Châu Âu, nghĩa là nhiều mỡ động vật.

Các chất gây ung thư: Công nhân ở nhà máy sử dụng cadmium hoặc ở các nhà máy dệt, thuộc da, làm phân bón, có nguy cơ bị ung thư tuyến tiền liệt.

Vai trò của virus: Paulson (1986) đã gây ung thư tuyến tiền liệt thực nghiệm trên chuột Hamster với virus gây ung thư SV-40. Taunenbaum và Littimer (1970) đã tìm thấy mảng virus trong các bệnh phẩm ung thư tuyến tiền liệt. Shah (1971) đã thất tỉ lệ kháng thể cao hơn bình thường chống các virus SV-40, Ecpet 2 và virus Cự bào ở bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt.

Tóm lại: Vai trò và cơ chế các yếu tố trên đây còn cần được làm sáng tỏ thêm để hiểu rõ sự xuất hiện và tiến triển của ung thư tuyến tiền liệt. Một điều chắc chắn là ung thư chịu ảnh hưởng không phải của một yếu, mà của nhiều yếu tố tác động lẫn nhau.

Giải phẫu bệnh ung thư tuyến tiền liệt

Tuyệt đại đa số ung thư tuyến tiền liệt là ung thư mô tuyến, chiếm 95% các loại. Số còn lại gồm ung thư biểu mô của tế bài chuyển tiếp, ung thư biểu mô cảu tế bào sừng hóa và ung thư liên kết. Ung thư biểu mô cảu tuyến tiền liệt xuất phát từ biểu mô túi nang ở những vùng bị xơ teo lão hóa.

Về giải phẫu bệnh, chẩn đoán ung thư tuyến tiền liệt đôi khi gặp khó khăn, đặc biệt là những ung thư rất biệt hóa. Chẩn đoán phải dự trên nhiều tiêu chuẩn: loại sản tế bào ung thư với những thay đổi kích thước, hinh dạng và màu sắc của nhân; trong nhâ, còn có không bào và các hạt nhiễm sắc phân bố ở ngoại vi, hạt nhân to… đặc biệt sự gián phân rất ít; trên thực tế, trong nhiều trường hợp không có nhiều biển đổi về tế bào ung thư và nhân của chúng. Sự xâm nhiễm của ung thư vào các bao dây thần kinh rất có giá trị trong chẩn đoán.

Việc chẩn đoán phải đặc biệt chú ý đến các biển đổi về cấu trúc của các tuyến. Trong tuyến tiền liệt bình thường hay phì đại, các tuyến thường tỏa ra từ các niệu đạo theo hình rẻ quạt và uốn quanh một cách đều đặn. Nhưng trong ung thư tuyến tiền liệt, các túi nang được phân bố một cách hỗn loạn từ một điểm trung tâm. Các túi nang thường chỉ còn được lát bởi một lớp tế bào và chen chúc nhau, với những kích thước khác nhau, túi nang này có thể chui vào tui nang kia, gây ra một cấu trúc lộn xộn. Nhiều khi ung thư phát triển nhan, tạo ra những cấu trúc đặc, hình dây, hình cột.

Những năm gần đây, nhiều tác giả lúc khám kĩ các tuyến tiền liệt của người còn trẻ từ 30-50 tuổi đã phát hiện thấy có những ổ nhỏ ung thư tiềm tàng tuyến tiền liệt và những vùng loạn sản độ cao được xem như tiền ung thư (còn gọi là vùng tăng sản nội biểu mô tuyến tiền liệt). Người ta chưa hiểu tại sao và khi nào các ổ ung thư sẽ bùng nổ gây ra các triệu chứng lâm sàng rõ nét và rầm rộ.

Để đánh giá độ ác tính của ung thư tuyến tiền liệt, các tác giả dựa vào mức độ biệt hóa tuyến, tính chất không điển hình của tế bào, và những bất thường của nhân. Hệ thống phân loại độ ác tình của Gleason (1974) được sử dụng rộng rãi hơn cả.

Để đánh giá giai đoạn xâm nhiễm của ung thư lan tỏa trong tuyến và di căn vào các mô khác, Tổ chức y tế thế giới đã đề xuất cách phân loại TNM (gần trùng hợp với phân loại của Whimorre và Jewett.

Ngoài ung thư biểu mô tuyến, còn có thể gặp ung thư biểu mô của tế bào chuyển tiếp, ung thư của tế bào đáy. Hiếm gặp hơn là ung thư nhú xuất phát từ các vết tính của ống Muller và ung thư biểu mô tuyến nhầy. Loại sacom cũng ít gặp. Ở trẻ em, thường gặp là sacom cơ vẫn, ở người lớn là sacom cơ trơn.

Các triệu chứng lâm sàng của ung thư tuyến tiền liệt

Mực dù ung thư tuyến tiền liệt khá phổ biến ở nam giới cao tuổi nhưng trên thực tế lại ít khi được phát hiện sớm. Lí do chính là ung thư thường tồn tại một cách tiềm tàng và không có biểu hiện đặc biệt, cho đến khi ở một giai đoạn nào đó lại di căn vào xương và các tạng.

Các triệu chứng tại chỗ gồm nhưng biểu hiện tắc đường tiểu tiện khó đái, đái nhiều lần, gần giống như trong bệnh u phì đại tuyến tiền liệt nhưng tắc tiểu tiện ở đây ngày càng có xu hướng tăng rõ rệt. Bệnh nhân có khi đau ở vùng tầng sinh môn và trực tràng do sự phát triển của u. Đau lúc xuất tinh và xuất tinh ra máu ở những người trên 50 tuổi là những dấu hiệu đáng ghi của ung thư.

Các triệu chứng của u đã di căn: đau ở xương chậy hông và cột sống lưng, nổi hạch ở bẹn, phù caahn, đại tiện khó và đau là những dấu hiệu có thể gặp trên 20% bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt.

Rất ít gặp hội chứng cận ung thư do sự tiết chất coctison hoặc chất parathocmon và gây ra những dấu hiệu giống hội chứng Cushing hay bệnh cường tuyến cận giáp.

Thăm khám trực tràng khi phát hiện các triệu chứng trên là biện pháp đơn giản nhưng rất có giá trị chẩn đoán. Lúc thăm khám, ung thư biểu hiện như một nhan rắn chắc nằm trên tuyến tiền liệt bình thường hay đại phì. Nhưng cũng nhiều khi ung thư đã lan rộng và toàn bộ tuyến tiền liệt ở dưới dạng một khối rắn chắc như đá, không đều, mất cân xứng và lan tỏa ra khỏi giới hạn bình thường của tuyến. Ung thư thường xâm nhiềm về phía các túi tính giãn toa và cố định. Thăm khám trực tràng có độ chính xác trên 70% nếu ung thư lan tỏa ra ngoài bao và chỉ đúng trên 25% nêu ung thư còn nằm trong bao.

Sinh thiết u để xét nghiệm về giả phẫu bệnh là xét nghiệm chắc chắn nhất để xác định ung thư tuyến tiền liệt. Có 2 phương pháp làm sinh thiết u:

Phương pháp thông thường là dùng kim loại sắc (kim Vim Silverman) để lấy một mảnh nhỏ, đường kính 1mm và dài 5mm, qua đường trực tràng hay qua đường tầng sinh môn. Cắt nội soi cũng có thể làm sinh thiết nhưng cso thể bỏ sót nhưng chỗ cần lấy ra vì ung thư thường nằm ở phía sau của tuyến tiền liệt.

Phương pháp chọc hút với kim Franzen và nhuộm tế bào theo Papanicolaou ít gây sang chấn nhưng cần có chuyên gia giàu kinh nghiệm về tế bào học. Nếu kết quả sinh thiết là dương tính, chắc chắn bệnh nhân mắc bệnh ung thư, ngược lại nếu kết quả âm tính, cần dõi lâm sàng, làm các xét nghiệm lâm sàng. Nếu cần, phải làm sinh thiết lại.

Chụp X-quang tuy không có giá trị quyết định trong chẩn đoán ung thư và các di căn nhưng trong nhiều trường hợp có khả năng đóng góp chẩn đoán bệnh. Ngay trong phim chụp không chuẩn bị, có thể phát hiện các di căn ở xương chậu hông và cột sống.

Với phim X-quang đường niệu tiêm tĩnh mạch, có thể thấy hình của một tuyến tiền liệt không đều, gồ ghề và không cân xứng. Niệu đạo sau cứng, bị thắt nghẹt và nham nhở. Niệu quản bị giãn một cách không cân xứng hoặc chỉ giản một bên. Ở vùng chậu hông, trên đường đi của niệu quản, có đoạn bị hẹp nếu có di căn hạch. Sau khi tiểu tiện, khối lượng nước tiểu ứ đọng cho phép đánh giá sự tiến triển của u.

Chụp siêu âm là một phát minh trong những năm gần đây, cho phép chẩn đoán những trường hợp ung thư “dưới lâm sàng”, nghĩa là lúc ung thư chưa có biểu hiện lâm sàng, kể cả lúc thăm khám trực tràng. Mặt khác, siêu ấm còn quyết định điều trị triệt để hay điều trị tam thời, tùy tình trạng ung thư còn khu trú trong bao hay đã vượt ra ngoài bao tuyết tiền liệt.

Máy siêu âm có đầu dò đặt trong trực tràng cho hình ảnh tốt hơn và đáng tin cậy hơn các máy siêu âm khám qua thành bụng. Hình ảnh điển hình của ung thư tuyến tiền liệt là hình ảnh giảm âm vang so với mô tuyến tiền liệt bình thường. Môt tuyến tiền liệt có cấu trúc như mặt lưới làm phản chiếu sóng siêu âm lên các bình diện đan chéo nhau gây âm vang. Ngược lại, mô ung thư là một khối vô định hình và đồng chất nên đã mất các bình diện đan chéo bình thường. Tuy nhiên, có những ung thư đồng âm vang với mô tuyến tiền liệt, lúc ung thư còn giữ tổ chức mặt lưới bình thường. Các loại ung thư tăng âm vang rất ít gặp, thường là do canxi hóa các cấu trúc bên trong ung thư.

Dùng siêu âm có thể chẩn đoán các loại ung thư có kích thước khoảng 1cm và giúp chuocj kim sinh thiết một cách chính xác. Siêu âm cũng giúp đánh giá tiên lượng và đề xuất phương pháp xử trí thích hợp. Siêu âm còn giúp theo dõi kết quả điều trị đặc hiệu sau khi sử dụng quang tuyến hoặc các loại hormone.

Chụp cắt lớp tỉ trọng giúp phát hiện sự lan tỏ của ung thư tại chỗ, với hình ảnh thay dodoir đường viền quanh bao tuyến tiền liệt và sự mất cân xứng hoặc thay đổi vị trí của các túi đinh. Phương pháp này cũng giúp đánh giá sự di căn vào các hạch bạch huyết và di căn vào xương chậu hông.

Chụp cộng hưởng từ hạt nhân là kĩ thuật có ích trong việc phát hiện các di căn vào hạch.

Chúp lấp lánh hệ thống xương giúp phát hiện các di căn vào xương trong ung thư tuyến tiền liệt sớm hơn chụp X-quang. Tính nhạy bén có thể lên tới 90% trường hợp có di căn vào xương. Đề loại trè các bệnh về xương (gãy xương, viêm khớp, bệnh Paget), phải chụp X-quang kiểm tra thêm và có khi phải làm sinh thiết xương. Phương pháp này còn có tác dụng giúp thầy thuốc đánh giá kết quả điều trị ung thư.

Chụp X-quang hệ bạch huyết cho phép phát hiện di căn vào hạch bạch huyết. mức độ chính xác của phương pháp này có thể lên tới 90%. Tuy nhiên, chụp hệ bạch huyết không cho thấy các hạch chớm di căn, các hạch ở vùng hạ vị và lỗ bịt. Để có kết quả chắc chắn, có thể chọc hút qua da để tìm ung thư di căn vào hạch.

Chuẩn đoán phân biệt: Trước hết cần chẩn đoán phân biệt với u phì đại tuyến tiền liệt, đặc biệt lúc có nhân hoặc viêm kèm theo. Cần loại trừ viêm tuyến tiền liệt do lao, hoặc do viêm mạn tính, sỏi trong tuyến tiền liệt. Phải làm các xét nghiệm tìm vi khuẩn, trong trường hợp có nghi vấn, phải làm sinh thiết. Khi ung thư di căn vào xương, cần chẩn đoán phật biệt với bệnh Paget.

UNG THU TUYEN TIEN LIET la the tiem tang, kha pho bien va co xu huong tang cung voi tuoi tho

Ảnh minh họa

Điều trị ung thư tuyến tiền liệt

Ung thư tuyến tiền liệt rất phổ biến ở các nước phát triển và có xu hướng tăng lên ở các nước đang phát triển. Ung thư tuyến tiền liệt tiến triển tiềm tàng và khó phát hiện. Trong hoàn cảnh hiện nay, các phương pháp chẩn đoán cũng không cho phép phát hiện bệnh hàng loạt. Thầy thuốc cần khám (đặc biệt là thăm khám trực tràng) những bệnh nhân trên 50 tuổi mỗi khi có dấu hiệu nghi ngờ về ung thư tuyến tiền liệt.

Còn có nhiều khó khăn khi chọn phương pháp điều trị thích hợp trong ung thư tuyến tiền liệt vì có sự khác biệt quá lớn trong quá trình tiến triển sinh học của ung thư. Hơn nữa, cho đến nay, các phương pháp chẩn đoán để đánh giá giai đoạn tiến triển của ung thư cũng chưa hoàn toàn chính xác. Mặt khác, điều trị triệt để là một phẫu thuật khó, có nhiều di chứng đáng kể, trong khi các phương pháp điều trị tạm thời chỉ cho những kết quả hạn chế.

Các phương pháp điều trị bao gồm cắt nội soi tuyến tiền liệt, cắt bỏ toàn bộ tuyến tiền liệt, điều trị bằng quang tuyến, điều trị bằng hormone, điều trị bằng hóa chất, điều trị bằng phương pháp miễn dịch.

Trong khi cắt nội soi để điều trị u phì đại tuyến tiền liệt, khoảng 15% trường hợp có kèm theo ung thư tuyến tiền liệt. Trong trường hợp này, nếu ung thư rất biệt hóa và cư trú ở một điểm, hi vọng sống thêm trên 5 năm của nhóm có ung thư biểu mô tuyến không khác với nhóm chứng. Nhưng nếu ung thư tiến triển hơn, ở giai đoạn Tob, nghĩa là có trên 3 mảnh cắt hoặc 5% của toàn bộ các mảnh cắt có ung thư, có tác giả khuyên nên cắt nội soi lại sau 3 tháng. Vì cắt nội soi không phải là một phẫu thuật triệt để, nên cần theo dõi chặt chữ các bệnh nhân này trong nhiều năm. Cắt nội soi còn có tác dụng giải quyết tắc đái ở những giai đoạn sau.

Điều trị quang tuyến được dùng rộng rãi trên thế giới từ khi Flocks (1954) báo cáo những kết quả đạt được sau khi điều trị ung thư tuyến tiền liệt bằng cách cằm vàng thể keo phóng xạ. Hơn nữa, sự xuất hiện các máy loại chiếu coban từ xa, các máy tăng tốc tuyến tính, các máy bêtatron đã đem lại những kết quả rõ rệt trong điều trị ung thư tuyến tiền liệt.

Điều trị bằng hormone: Tiếp theo công trình nghiên cứu của Huggin, người ta đã thực hiện phương pháp điều trị bằng hormone đối với các trường hợp ung thư tuyến tiền liệt muộn, ở giai đoạn di căn.

Cắt bỏ tình hoàn hai bên là phương pháp hữu hiệu nhất để giảm nguồn cung cấp testosteron, vì 90% hormone này được sản xuất bơt tế bào Leydig. Nồng độ testosteron trong huyết tương sẽ giảm từ 500ng/100ml xuống còn 50ng/100ml.

Điều trị bằng hóa chất: Một khi ung thư tuyến tiền liệt không còn đáp ứng với các phương pháp trên, người ta điều trị bằng hóa chất. Các hóa chất thường được dùng là cyclophosphamide, 5-flourouracile, doxorubicine mitomicine C và estramustine. Các thuốc này được sử dụng riêng biệt hay kết hợp với nhau. Estramustine được chế biến trong những năm gần đây với mục đích là dùng diethylstilbestrol làm phương tiện dẫn đường đưa chất moutarde azote đến tế bào đích và ít gaayhaij cho các tế bào khác của cơ thể.

Điều trị bằng phương pháp miễn dịch: Trên thực nghiệm cũng như trên lâm sàng, người ta thấy có tác động miễn dịch giữa vật chủ và u. Trên lâm sàng, hiện chỉ dùng các loại miễn dịch không đặc hiệu như BCG (Villasor, 1965), Lévamisole (Zamoza, 1979) và trường hợp với các phương pháp khác như phẫu thuật, điều trị quang tuyến hay hóa chất.

Chỉ định điều trị: Chiến thuật xử trị chủ yếu dựa vào yếu tổ ung thư khu trú tại chỗ hay di căn. Nếu ung thư còn khu trú tại chỗ, điều trị như sau: ở giai đoạn T0, ung thư được phát hiện tình cờ sau mổ u tuyến tiền liệt, thái độ hiện nay là theo dõi và lúc có dấu hiệu ung thư tuyến tiến triển thì xử trí theo các giai đoạn sau của ung thư. Kinh nghiệm của nhóm Vacurg cho thấy: Điều trị bằng nội tiết sớm hay muộn không ảnh hưởng đến thời gian sống thêm. Ở giai đoạn T1 và T2 có hai khả năng điều trị: cắt bỏ toàn bộ tuyến tiền liệt, nếu bệnh nhân còn trẻ, hi vọng sống thêm trên 10 năm, hoặc điều trị bằng quang tuyến trong trương hợp khác. Ở giai đoạn T3 và T4 điều trị hay cắt bỏ tinh hoàn tùy hoàn cảnh.

Một khi ung thư không còn đáp ứng với điều kiện nội tiết, chuyển điều trị bằng hóa chất và điều trị bằng phương pháp miễn dịch. Ở giai đoạn cuối, cần giải quyết cho bệnh nhân những biến chứng tắc đái và vô niệu. Nếu sau khi điều trị bằng nội tiết và đặt ống thông niệu đạo hay dẫn lưu bàng quang mà bệnh nhân vẫn không đái được, có thể cắt nội soi để tránh đeo ông thông đái lâu dài và viêm đường tiết niệu.

Trong trường hợp vô niệu, điều trị bằng nội tiết kết hợp với corticosteroide. Nếu không có kết quả, cần dẫn lưu thận, hoặc đưa niệu quản ra da. Sau cùng, trong quá trình tiến triển của bệnh, phải chống đau cho bệnh nhân. Nguyên tắc là sử dụng thuốc có tác dụng chống đau từ thấp lên cao, phải phối hợp với các loại thuốc chống viêm và an thần để làm tăng hiệu lực và chống các tác dụng phụ. Bình thường nên dùng các loại axit axetylsalicylicm paraxetamol trong giai đoạn đầu. Sau đó dùng các loại codein, sau cùng là mocphin.

Ung thư tuyến tiền liệt, đặc biệt là thể tiềm tàng, khá phổ biến và có xu hướng tăng cùng với tuổi thọ. Trong khi sự phát triển hàng loạt chưa có khả năng thực hiện được, thầy thuốc cần thăm khám kĩ để có thể phát hiện sớm và điều trị bằng phẫu thuật quang tuyến. Chiến thuật điều trị phải được cân nhắc cẩn thận vì các phương pháp chẩn đoán cũng như các phương pháp điều trị chưa thật hoàn hảo, đặc biệt quá trình tiến triển sinh học của ung thư tuyến tiền liệt thường chậm và rất khác nhau đối với từng bệnh nhân.

Bình Nguyên

Theo chuyên đề Sức Khỏe Gia Đình

Tin cùng chuyên đề

TIN KHÁC

Sống tâm lý

Cho con

Giảm béo