Không phải lúc nào thuốc cũng được chỉ định bằng đường uống, nhất là khi bạn bị các bệnh ngoài da. Tuy nhiên, không phải ai cũng biết cách sử dụng thuốc bôi một cách hợp lý.
Phân loại thuốc thuốc bôi ngoài da
Bất cứ khi nào thấy đau, rát, ngứa trên da là nhiều người nghĩ ngay đến chuyện bôi các thuốc thông thường như dầu, cao, thuốc mỡ, thuốc tán nhỏ từ kháng sinh… Họ đã bỏ qua một nguyên tắc dùng thuốc là tìm hiểu nguyên nhân gây bệnh và thuốc trị bệnh.
Trước tiên, bạn nên biết trên thị trường có rất nhiều loại thuốc bôi ngoài da, tập trung lại theo các dạng chính sau đây:
Dung dịch: Thường gọi là thuốc nước gồm hoạt chất hòa tan trong dung môi như nước, cồn. Ví dụ: Dung dịch bôi sát trùng, dung dịch trị ghẻ.
Thuốc bột: Có tác dụng hút nước, làm mát da, giảm cọ xát lên da... thường dùng cho thương tổn da vùng nếp gấp, kẽ da.
Thuốc kem: Làm mềm dịu và chống khô nứt da.
Thuốc mỡ: Làm mềm da, chống khô da, duy trì tác dụng của thuốc trong một thời gian dài và thấm sâu vào da.
Nhóm thuốc đắp ướt, ngâm, tắm, nhỏ giọt: Có tác dụng giảm viêm, làm sạch thương tổn hay diệt vi trùng và ký sinh trùng. (Ví dụ: thuốc tím, nước muối sinh lý, thuốc đỏ…).
Ngoài ra, còn có một đại diện của Y học cổ truyền là dầu mù u - một loại thuốc bôi có tính sát khuẩn tốt, nhất là trong những trường hợp vết loét da lâu ngày do bệnh nhân nằm lâu, hầu như không gây tác dụng phụ nên hiện đang được các bác sĩ sử dụng rộng rãi.
![]() |
Dùng thuốc bôi ngoài da hiệu quả
Thông thường, thuốc bôi ngoài da được dùng kết hợp với thuốc uống theo nguyên tắc “trong uống ngoài xoa”. Và không phải hễ cứ có bất thường trên da là bôi thuốc.
Nguyên tắc là bạn chỉ dùng khi được bác sĩ xác định rõ nguyên nhân như:
Các bệnh nhiễm khuẩn da: viêm nang lông, viêm da mủ, mụn trứng cá, viêm quầng, nhọt…
Các bệnh da có bội nhiễm: chàm bội nhiễm, tổ đỉa bội nhiễm, da bóng nước, ghẻ bội nhiễm…
Các bệnh nội tạng có biểu hiện ra da: tiểu đường, loét lỗ đáo trong bệnh phong, loét da do tì đè khi bệnh nhân phải nằm lâu do hôn mê, tai biến mạch máu não...
Chấn thương làm rách da, trầy da có thể bị nhiễm trùng.
Ngoài ra, bạn cũng cần lưu ý dùng thuốc phải phù hợp với diễn tiến của bệnh. Chẳng hạn như, nếu thương tổn da ở giai đoạn cấp tính chảy nước, phù nề thì nên dùng thuốc bôi dạng dung dịch hay đắp ướt. Thương tổn da ở giai đoạn mãn tính, da dày, khô, tróc vẩy thì nên dùng dạng thuốc mỡ. Khi bị nấm bẹn (hắc lào) thì dùng dung dịch idode salicylic 1-2%, nhưng nếu là nấm kẽ chân hoặc các vùng da dày thì có thể dùng tới 3% hoặc cao hơn.
Đối với các nếp gấp hay khe kẽ, nên tránh dùng thuốc mỡ vì dễ gây dính, bí hơi, nhất là vào mùa hè nóng bức; chỉ dùng thuốc bôi dạng bột, nước hoặc hồ.
Hãy bắt đầu bằng việc thăm dò cảm ứng của da đối với thuốc: bôi trên một vùng da nhỏ với lượng thuốc ít, nếu không thấy hiện tượng gì khác lạ xuất hiện như ngứa tăng lên, nổi mẩn… thì mới bôi đủ lượng cần thiết.
Cẩn trọng với trẻ nhỏ
Da trẻ nhỏ có lớp sừng mỏng, hàng rào biểu mô chưa trưởng thành nên mỏng manh, nhạy cảm, vì vậy nên dùng thuốc bôi ngoài với tỷ lệ thấp hơn người lớn. Chẳng hạn như mỡ lưu huỳnh (bôi ghẻ ở người lớn) có thể dùng đến 30%, song ở trẻ em chỉ dùng 10%, hoặc không nên dùng ở vùng da mỏng vì dễ bị kích thích, hay như với dung dịch thuốc tím loãng, chỉ đắp, tắm cho trẻ nhỏ với nồng độ thấp 1/10.000, có màu hồng rất nhạt.
Các chuyên gia khuyến cáo, không bôi lên da, đặc biệt là niêm mạc trẻ nhỏ những sản phẩm chứa tinh dầu. Đây là thói quen bất lợi ở nhiều bà mẹ, rất hay dùng dầu long não hay cao xoa. Thực tế, chất camphor trong tinh dầu sẽ thấm qua da và kích thích thần kinh, gây co giật hay chất menthol có trong cao xoa thấm qua da vào bên trong, có thể gây liệt hô hấp.
Nên từ bỏ những thói quen như dùng các loại thuốc dán (như salonpas) để dán lên da trẻ, bôi thuốc (như corticoid) rồi dùng băng bịt chặt lại vì sẽ làm cho hoạt chất dễ ngấm vào bên trong gây hại. Việc dùng cồn iốt sát khuẩn chỗ xước da của trẻ cũng vô cùng nguy hại bởi theo các nhà chuyên môn, thói quen đó có thể khiến trẻ bị thiểu năng tuyến giáp.
Một số trường hợp trẻ gãi làm da bị tổn thương, bội nhiễm vi khuẩn gây lở loét, có thể dùng thuốc kháng sinh chữa bội nhiễm cho lành vết thương, sau đó bôi thuốc chữa bệnh da nhưng phải có chỉ định của bác sĩ.
Hãy thận trọng khi dùng các loại thuốc bôi dễ gây nhiễm độc cho trẻ như axit salixylic, axit crisophanic, axit boric, gudron... Các loại thuốc khác tuy không gây nhiễm độc nhưng cũng không nên dùng kéo dài vì dễ gây nhờn thuốc, chỉ nên dùng từ 15-20 ngày rồi thay thuốc khác.
Một số lưu ý khi dùng thuốc bôi ngoài da
- Bạn luôn phải lưu ý đến sự tương kỵ giữa các thuốc: Ví dụ thuốc có chứa thủy ngân (oxid vàng, thủy ngân, subline, calomel...) tuyệt đối không bôi cùng một chỗ với i-ốt vì có thể xảy ra phản ứng hóa học làm cháy da. Một số thuốc dễ gây tai biến (như mỡ crisophanic) không bôi vào các vùng da mỏng như bẹn, nách, bìu (vì dễ gây viêm da), không được bôi ở cạnh mắt (vì dễ gây viêm kết mạc)…
- Dù bôi thuốc gì, bạn cũng không nên kỳ cọ quá mạnh gây tróc vảy, trợt da, tạo điều kiện cho viêm da, dị ứng nhiễm khuẩn, làm bệnh nặng thêm.
- Không tự ý lấy các thuốc kháng sinh toàn thân để dùng tại một chỗ (như rắc bột Penicilline hay Streptomycine lên vết thương). Điều này không những làm kích thích da mà còn dễ gây dị ứng và sốc phản vệ có thể làm chết người.
- Thuốc bôi ngoài da ngoài tác dụng tại chỗ còn thấm qua da để vào máu và cơ thể. Do đó, không được dùng thuốc để uống, tra vào mắt hoặc nhỏ mũi...
Kim Anh
Theo tạp chí Sống Khỏe